Lịch sử thuế thân? Ý nghĩa của việc bãi bỏ thuế thân?

1063

Thuế thân, còn gọi là thuế đinh hay thuế đầu người, là một loại thuế áp dụng lên mỗi cá nhân nam giới trong xã hội phong kiến Việt Nam. Sau đó, thuế thân đã bị bãi bỏ

Lịch sử của thuế thân

Thuế này xuất hiện từ thời nhà Lý và tiếp tục được duy trì qua các triều đại Trần, Lê và Nguyễn. Ban đầu, thuế thân được tính dựa trên số lượng ruộng đất mà mỗi người sở hữu. Tuy nhiên, từ thời nhà Lê, thuế này được áp dụng đồng đều cho mọi nam giới từ 18 tuổi trở lên, bất kể họ có sở hữu ruộng đất hay không. Dưới thời phong kiến mà gần nhất là triều Nguyễn, thuế thân chỉ đánh vào nội tịch, tức là dân sở tại, có ít nhiều tài sản nên có khả năng đóng thuế. Vì vậy, người nộp thuế thân cũng được hưởng một số đặc quyền trong làng, xã như được chia ruộng đất công, được tham gia việc làng, được tham gia bầu các chức vụ trong làng, xã. Dân ngoại tịch (dân ngụ cư) không phải đóng và không được đóng thuế thân nên cũng không được hưởng các đặc quyền trên. Như vậy, dưới thời phong kiến, người nộp thuế thân vừa có nghĩa vụ vừa có quyền lợi khi nộp thuế, bởi đó là chính sách thuế của một nhà nước phong kiến độc lập, không có ngoại bang điều khiển.

Lược trích từ cuốn sách VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ CƯƠNG của tác giả Đào Duy Anh.

Thời phong kiến với những quy định ngặt nghèo về sưu thuế đã dồn nhiều người dân, đặc biệt là người nông dân vào bước đường cùng của sự nghèo khó. Vậy thời phong kiến xưa có những loại sưu thuế nào?
– Thuế đinh:
Cũng gọi là sưu, thì theo đinh bộ hay hộ tịch của mỗi làng mà bổ. Ở nước ta từ đời nhà Lý đã có lệ mỗi năm khai hộ số (xưa gọi là đơn số), đàn ông 18 tuổi gọi là hoàng nam, từ 20 tuổi trở lên gọi là đại nam. Triều Trần cũng mỗi năm sửa lại hộ tịch. Song thuế thân ở hai triều ấy thì theo số ruộng của mỗi người mà đánh, ai không có ruộng thì khỏi phải đóng.
– Thuế thân:
Là thứ thuế đánh đạo đa số nhân dân trong nước là nhân dân. Còn những người làm công nghệ, tức là công tượng, tuy được dự vào hạng miễn sai, nhưng lại phải nộp một thứ thuế riêng nặng hơn thuế thân. Thuế ấy phải nộp bằng tiền hoặc sản vật, như thợ dệt gấm vóc phải nộp mỗi người bao nhiêu thước, thợ làm quế, thợ làm yến sào phải nộp mỗi người mấy cân hoặc mấy lạng.
– Thuế điền thổ:
Giống như thuế đinh đã lập từ triều Lý. Vua Lý Thái Tổ (1010-1028) định các thứ thuế ruộng, thuế đầm, thuế ao, thuế đất trồng dâu và bãi phù sa. Đời Trần Thái Tôn (1242) định lệ mỗi mẫu ruộng tư phải đóng thuế 100 thăng lúa, còn ruộng công thì đóng nặng hơn.
Ngoài thuế thân và thuế điền thổ, còn các hạng thuế khác đối với những hạng không sinh tồn bằng nghề nông, gọi nôm na là thuế sản vật. Từ đời Lý Thái Tông, những sản vật ở rừng và ở biển, sừng tê, ngà voi, hương, trầm, tre gỗ, hoa quả, mắm, muối, đã bị đánh thuế rồi.
Ngoài ra, còn có quan thuế đánh các tàu bè ngoại quốc thông thương ở các cửa biển và các phụ đầu nước ta. Thuế ấy trải qua mấy triều vẫn có một mục đích như nhau là để hạn chế sự xuất cảng các sản vật trong nước, cụ thể:
– Thuế ghe thuyền đi lại các sông, mỗi tháng phải nạp một lần, mỗi suất từ 5 tiền đến 10 quan, tùy theo ghe thuyền lớn nhỏ.
– Thuế đánh cá ở các sông ngòi, hồ đầm cho tư nhân hoặc xã thôn trưng; thuế đồ chài lưới mỗi người ngư nghiệp phải nộp.
– Thuế đò, thuế chợ cho tư nhân hay xã thôn trưng.

[collapse]
@manabox.ketoanthue Thuế thân, ngay từ khi ra đời đã là một thứ thuế vô lý ~ #thuethan #lichsu #thue #ketoan #theodonglichsu #manaboxteam #manabox #viralvideo ♬ original sound – Manaboxvn

Dưới thời Pháp thuộc, thuế thân trở thành một công cụ bóc lột kinh tế quan trọng của thực dân Pháp. Họ mở rộng đối tượng chịu thuế và tăng mức thuế, gây ra gánh nặng lớn cho người dân. Thuế thân được định thành xuất, nộp theo từng năm. Mức thuế đối với nội đinh nhiều hơn mức thuế đối với ngoại đinh (nội đinh nộp 2đ50, ngoại đinh nộp 0đ30). Mức thuế này bao gồm cả tiền thuế thân chính ngạch và tiền chuộc ngày công lao dịch. Cách tính mức thuế này tồn tại đến năm 1919. Sau năm 1919, chế độ đồng nhất thuế ra đời, việc phân chia nội đinh, ngoại đinh không còn nữa mà đánh đồng tất cả người có tài sản hay không có tài sản đều chung một mức 2đ50. Đó là sự bất công trong chế độ thực dân, phong kiến. Thực dân Pháp tận dụng tất cả các đối tượng nộp thuế nhưng lại ưu đãi một số đối tượng người Việt phục vụ cho bộ máy cai trị của Pháp như: Viên chức của chính quyền bảo hộ, những người có bằng tòng cửu phẩm trở lên, quân nhân đương nhiệm, thông ngôn, nhà nho đang làm việc tại các sở dân sự và quân sự, chánh phó tổng… Điều này thể hiện rõ ý đồ mua chuộc người Việt làm tay sai cho thực dân Pháp, chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất của một dân tộc.

Thuế Việt nam dưới thời pháp thuộc (Từ 1858 đến 1945)

1/ Chính sách bóc lột về kinh tế, vơ vét tài chính của thực dân Pháp:

 Sau hoà ước Hác –măng (1883) và hoà ước Pa-tơ-nốt (1884) thực dân Pháp chính thức đặt ách thống trị, đô hộ Việt Nam. Kể từ đó, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện chính sách khai thác thuộc địa ở Việt Nam, trong đó có chính sách thuế hà khắc đối với người Việt . Chúng đã phân chia đất nước Việt nam thành 3 kỳ nhằm xoá bỏ sức mạnh thống nhất của dân tộc ta để dễ bề cai trị:

 – Nam kỳ là đất thuộc địa, không còn quan hệ phụ thuộc với Triều đình Huế. Đứng đầu bộ máy cai trị là một viên đô đốc người Pháp, về sau, thay bằng chức Thống đốc Nam kỳ.

 – Trung kỳ là xứ bảo hộ. Triều đình bù nhìn vẫn tồn tại với danh hiệu “Chính phủ Nam triều”. Tuy vậy các quyền hành thực sự đều nằm trong tay Khâm sứ Trung kỳ người Pháp. Mọi văn bản như Sắc, Du, Chỉ của nhà vua và các Điều lệ, quy tắc của Hội đồng thượng thư phải được khâm sứ Pháp duyệt trước khi ban hành.

 – Bắc kỳ là đất “nửa bảo hộ”, đặt dưới quyền cai trị của Thống sứ Bắc kỳ người Pháp. Triều đình Huế được cử một Kinh lược sứ (sau đổi thành Khâm sai đại thần) thay mặt nhà vua nắm quyền cai trị nhưng thực chất chỉ là bù nhìn.

 Trên thực tế, tất cả bộ máy, từ vua đến quan đều do thực dân Pháp sắp đặt. Bao trùm lên trên tất cả là Toàn quyền Đông Dương, cai trị cả Việt nam, Lào, Cam Pu Chia.

 Việt nam ở xa chính quốc và có khí hậu nhiệt đới nên thực dân Pháp không chọn là thuộc địa di dân mà chỉ là thuộc địa khai thác vì ở Việt nam có rất nhiều tài nguyên, nguồn lợi. Ngành xuất cảng của Pháp thấy rõ Việt nam là nguồn tiêu thụ hàng hoá rất có lợi. Bằng độc quyền thương mại, thực dân Pháp thực hiện dã tâm phá hoại kinh tế để gây chia rẽ thống nhất về mặt chính trị. Từ lâu, tài nguyên của các miền thường xuyên bổ sung cho nhau. Nhưng khi Bắc kỳ bị thiên tai, phải đưa gạo từ miền Nam ra thì thực dân Pháp đánh thuế như gạo nhập từ nước ngoài. Độc quyền thương mại còn là phương tiện để bần cùng hoá nhân dân lao động Việt nam. Chúng nhập hàng dệt, đồng thời phát triển công nghiệp bông vải sợi Pháp ở Đông Dương để bóp chết ngành dệt thủ công cổ truyền của Việt nam. Các hàng mỹ nghệ xuất khẩu có giá trị như sơn mài, thêu, ren, đăng ten, khảm chạm, đan lát do bàn tay khéo léo của thợ thủ công Việt nam sản xuất cũng bị bọn tư bản Pháp cấu kết với tư bản Hoa kiều có nhiều vốn giữ độc quyền thu mua, với giá rẻ mạt để xuất cảng thu nhiều lợi nhuận. Chỉ có hạn chế sự phát triển của công nghiệp Việt nam, thương nghiệp Pháp mới có điều kiện phát triển cách buôn bán 2 chiều giữa Pháp và Việt nam và thu được lợi nhuận thuộc địa siêu ngạch.

 Đi đôi với chính sách khai thác, bóc lột về kinh tế, thực dân Pháp rất quan tâm đến chính sách vơ vét tài chính, do toàn quyền đặt ra với nhiều hình thức sưu, thuế vô cùng tàn nhẫn đối với nhân dân Việt nam. Nhà nước thực dân đã ban hành thuế thân, thuế điền, thuế lao dịch, thuế nhà, thuế diêm, thuế thuốc lá, dầu mỏ, bài lá, thuế rượu, thuế thuốc phiện, thuế muối, thuế quan, thuế tem, thuế ma chay, cưới xin, cúng tế, thuế môn bài, thuế chợ, thuế đò, thuế sông nước, thuế xe đạp, thuế trước bạ, thuế cư trú, thuế mái hiên, thậm chí có cả thuế vệ sinh nữa… “Trên chiếc lưng cao su của người An Nam, nhà nước tha hồ kéo dài mức thuế co dãn”. (H.L.James – Trên đất nước An nam – Paris – 1898 – trang 11). Trước thời Pháp thuộc, nhân dân Việt Nam phải nộp cho triều đình Huế mỗi năm khoảng 30 triệu phơ răng tiền thuế. Đến thời toàn quyền P.Đu.me (1896) nhân dân Việt Nam phải nộp cho Pháp mỗi năm 90 triệu phơ răng (Lịch sử Việt Nam tập II.NXB Khoa học xã hội 1985-Trang 105).

 ở Nam kỳ, cho đến trước 1887, hàng hoá nhập vào không bị đánh thuế nhập cảng (trừ rượu, vũ khí, thuốc nổ và các loại dầu). Sở dĩ như vậy là vì thời kỳ đó; hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam còn ít nên thực dân Pháp khuyến khích nhập hàng. Ngược lại, thuế xuất khẩu rất được quan tâm:Gạo Nam kỳ bán ra ngày càng nhiều và phải nộp thuế xuất cảng 0,15 đ ĐD/bao (50 kg); thuế trâu bò xuất ra 0,20 đĐD/con. Về thuốc phiện, Nhà nước đã độc quyền mua bán thuốc phiện ở Nam kỳ nên không đánh thuế vào thuốc phiện nhập, mà chỉ đánh thuế vào thuốc phiện xuất cảng 3đ ĐD/thùng. Thuyền, ghe biển chạy buồm cũng phải nộp thuế nặng.

 ở Bắc kỳ, Trung kỳ, chế độ thuế có khác ở Nam kỳ. Tất cả hàng nhập phải nộp thuế 5% giá hàng, hàng từ Sài gòn ra nộp 2,5% giá hàng; thuốc phiện nhập vào Trung, Bắc kỳ nếu chưa nấu, nộp 350 Franc đến 780 Fr/bao, nấu rồi nộp 1560 Fr. Hàng xuất sang Pháp nộp 2,5% giá hàng, đến các nước khác nộp 5% …

 Trong khi thực dân Pháp cố vơ vét lúa, gạo của Nam kỳ để xuất cảng thì ở Trung – Bắc kỳ thiếu gạo phải nhập cảng gạo từ Hông Kong. Năm 1887-1888, khi nạn đói hoành hành ngoài Bắc thì gạo ở Nam kỳ lại ứ đọng hoặc xuất ra ngoài với giá rẻ mạt (mỗi bao lúa bán cho Hồng Kong 0,90 đ ĐD/bao). Trong tình hình giá lúa ở Bắc kỳ lên đến 5 đ ĐD/bao,t hực dân Pháp lại vơ vét gạo của Nam kỳ chở ra Bắc bán với giá cao, thu nhiều lợi nhuận siêu ngạch.

 Các loại thuế được thu và phân chia theo 2 loại ngân sách: Ngân sách Đông dương (chủ yếu là thuế quan, thuế rượu, thuốc phiện, muối…) và ngân sách địa phương gồm các xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) các tỉnh (chủ yếu là thuế thân, thuế ruộng đất, thuế lao dịch…)

 2. Thuế chủ yếu thu cho ngân sách Đông Dương

 2.1- Thuế quan: (còn được gọi là thuế đoan, thuế thương chính).

 Thực dân Pháp chú trọng nhiều đến quyền lợi xuất khẩu hàng hoá hơn là xuất khẩu tư bản. Những tổ chức thu được nhiều lợi nhuận nhất chính là những tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu của Pháp. Lúc đầu thực dân Pháp còn vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của thương nhân Hoa kiều và ấn kiều (với số lượng cơ sở rất đông ở Hà nội, Hải phòng và giá vốn kinh doanh hạ hơn, do nhân công rẻ mạt và chi phí vận chuyển ít tốn kém hơn). Nhưng từ năm 1887, thực dân Pháp đã bảo vệ thương mại của các cơ sở kinh doanh của Pháp bằng chính sách “Đồng hoá quan thuế “.

 Theo chế độ “đồng hoá quan thuế” được thi hành cho đến năm 1940, trên nửa thế kỷ, nước Pháp và Việt nam, thuộc hai khu vực kinh tế có hai trình độ phát triển khác nhau, có nhu cầu và khả năng xuất nhập khẩu cũng khác nhau nhưng lại phải chung một chế độ thuế quan giống nhau, cùng một biểu thuế xuất nhập khẩu , căn cứ vào tình hình và điều kiện riêng của nước Pháp. Pháp bảo vệ thứ sản phẩm nào thì Việt nam cũng bảo vệ thứ sản phẩm đó, Pháp ưu đãi nước nào thì Việt nam cũng phải ưu đãi nước đó. Chế độ đồng hoá quan thuế này làm cho Việt nam chỉ có thể đặt quan hệ buôn bán với Pháp là chủ yếu: 60% hàng nhập là hàng của Pháp, 30% hàng xuất là đưa sang Pháp. Thị trường Việt nam hầu như dành riêng cho bọn tư bản Pháp ở chính quốc. Nhờ hàng rào thuế quan bảo hộ, tư bản Pháp tự do đưa hàng với giá đắt vào thị trường Việt nam, bóc lột tàn nhẫn nhân dân ta. Trong cuốn sách “Vấn đề dân cày”, hai tác giả Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp đã viết: “họ vớ được một số lời cao hơn với số lời của họ thường có trên thị trường thế giới”. Số lời cao đó, trong kinh tế chính trị học gọi là “thặng dư lợi nhuận thuộc địa”.

 Số thặng dư lợi nhuận thuộc địa này là một gánh rất nặng đè lên vai nhân dân ta. Chính một nhà kinh tế học Pháp là Pôn-Béc-na trong cuốn sách “Vấn đề kinh tế Đông dương” đã kết luận là khi mua những thứ hàng được chế độ thuế quan bảo vệ, người dân Đông dương phải trả một giá trung bình cao hơn giá thị trường ở nước ngoài khoảng 15%. Lấy tỷ lệ đó nhân với (x) tổng trị giá hàng nhập từ nước Pháp thì thấy mỗi năm nhân dân Đông dương phải nộp khống cho các nhà kinh doanh xuất khẩu ở chính quốc khoảng 12 triệu đồng Đông dương (ĐD) bằng 1/8 ngân sách Đông dương (năm 1930). Năm 1939, số lợi nhuận này tăng đến 20 triệu đồng ĐD, hơn 1/6 ngân sách Đông dương năm đó.

 Trước đây, hàng ngoại nhập vào Việt nam chỉ phải chịu thuế bằng 5% giá hàng thì trước năm 1928, phải chịu thuế từ 25% đến 130% giá hàng và sau năm 1928 đến 1940, tăng từ 50% đến 180% giá hàng. Chính sách thuế này đã làm cho hàng ngoại quốc giảm, chỉ còn khoảng 56%. Vì vậy giá các loại hàng mà dân ta cần dùng (như sợi, bách hoá của Trung quốc) mà Pháp không có, giá tăng lên gấp 2-3 lần.

 Thực tế, tuy hàng ngoại quốc nhập vào Việt nam ít đi nhưng do thuế suất cao hơn nên số tiền thuế quan thu ngày càng nhiều hơn. Ví dụ năm 1928, thuế quan thu được 12,5 triệu đồng ĐD, đến năm 1930 đã thu được hơn 18,6 triệu đồng ĐD.

 Ngược lại, đối với hàng Việt nam xuất sang Pháp, tuy đạo luật thuế quan có quy định miễn thuế, nhưng trên thực tế, thực dân Pháp chỉ miễn cho những thứ hàng nào ít bán sang Pháp hoặc những thứ hàng mà Pháp không sản xuất, còn các loại hàng Pháp đã có (như đường) hoặc hàng Pháp mua nhiều (như cà phê, hột tiêu…) thì chỉ được miễn thuế với một số lượng nhất định, ngoài mức đó phải nộp thuế như hàng ngoại quốc khác. Hơn nữa, hàng Việt nam tuy nhiều nhưng hầu hết là hàng cồng kềnh, nặng, như gạo, than…, chuyên chở tốn kém nên trước năm 1928, Pháp mua của Việt nam rất ít.

 Từ sau năm 1928, khi thực dân Pháp nâng thuế suất vào hàng nhập từ các nước khác để đối phó, các nước khác (nhất là Trung quốc, Nhật bản) đã đánh nặng thuế nhập khẩu đối với hàng Việt nam, làm cho hàng Việt nam không bán được, nhiều nhà sản xuất của Việt nam bị phá sản. Hàng Việt nam bị ế trên thị trường á đông, tư bản Pháp lợi dụng tình trạng này để vơ vét mua hàng của Việt nam với giá rẻ mạt để chuyển sang Pháp bán với giá đắt. Phòng Canh nông Bắc kỳ đã than phiền: “Tư bản Pháp mua một cân hàng Việt nam với giá khoảng 5-6 phờ-răng, để rồi bán cho người tiêu dùng bên Pháp với giá 50 phờ-răng”.

 Trong vòng 10 năm (1897 – 1906), tổng số hàng nhập từ Pháp sang Đông dương chủ yếu là Việt nam, tăng 420%. Tổng số hàng xuất từ Đông dương, chủ yếu từ Việt nam tăng 350%. Trong khi đó, hàng xuất từ Đông dương sang nước khác chỉ tăng có 36%. Thực dân Pháp đã đưa việc xuất nhập khẩu hai chiều giữa Pháp và Việt nam tăng lên nhanh chóng. Nhìn chung, thuế quan thường chiếm 30% tổng số thuế trong Ngân sách Đông dương. Tỷ lệ hàng xuất cảng của Việt nam sang Pháp so với tổng số hàng xuất cảng hàng năm của Việt nam ra các nước ngày một tăng. Năm 1928 là 21%; 1931:31,9%; 1934:49,3%; 1936:54,9%. Đến năm 1939, mặc dù cuộc đại chiến thế giới thứ hai đã bắt đầu nhưng tỷ lệ hàng xuất khẩu của Việt nam sang Pháp cũng chiếm đến 32,4%.

 Sau khi Pháp thua trận ở đại chiến thế giới lần thứ hai, Phát xít Nhật đã buộc thực dân Pháp ở Đông dương xoá bỏ chế độ đồng hoá quan thuế thi hành từ 1928, thay thế bằng chế độ “quan thuế tự trị” từ ngày 15/10/1940, tức là chấm dứt sự lệ thuộc của kinh tế Đông dương vào kinh tế của Pháp, đưa kinh tế Đông dương vào quỹ đạo của khối Đại Đông á do Nhật bản thống trị và lũng đoạn. Quan hệ mua bán chính thức giữa Đông dương với Pháp bị giảm sút, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của Pháp không còn được hưởng những chế độ ưu tiên, ưu đãi về thuế quan như trước ở Việt nam.

 2.2- Thuế gián thu (Công quản)

 Thuế gián thu thường bảo đảm khoảng 70% tổng số thu của ngân sách Đông dương, chủ yếu là thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện, thông qua chế độ công quản, còn được gọi là chế độ độc quyền.

 2.2.1- Thuế muối

 Muối là sản phẩm không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của mỗi người. Công quản muối là một hình thức độc quyền của thực dân Pháp với nguyến tắc là toàn bộ số muối mà diêm dân sản xuất phải bán hết cho nhà nước với giá rẻ mạt, rồi Nhà nước bán lại cho dân (kể cả người trực tiếp sản xuất muối) với giá cao hơn, để hưởng lợi nhuận. Chế độ công quản muối không đơn thuần chỉ phục vụ mục tiêu kinh tế – tài chính của chính quyền thực dân mà còn mang ý nghĩa chính trị. Nhà nước có thể dùng muối làm áp lực với nhân dân khi cần.

 Theo chế độ, tất cả những người sản xuất muối đều phải khai báo và được cơ quan thương chính xem xét, cấp giấy phép hành nghề. Người sản xuất muối phải bán ngay và bán hết số muối làm ra tại đồng muối, cho Nhà nước, không được dành lại cho mình chút muối nào, kể cả nước chạt (nước muối). Nghị định ngày 18-10-1921 của toàn quyền Đông Dương quy định:; Trên ruộng muối và trong vòng 10 km xung quanh ruộng muối, người nào giữ trên 100 kg muối mà không có giấy phép sẽ bị phạt tiền từ 100 đến 2000 phơ răng. Thậm chí “dân nghèo vùng biển không có tiền mua muối, chứa nước chạt trong nhà để nấu thức ăn cũng bị tù ” (Lịch sử Việt Nam – tập II trang 167)

 Cứ đến mùa sản xuất muối, nhân viên sở thương chính được bố trí thường trực ngày đêm tại đồng muối, theo dõi quản lý chặt chẽ tình hình sản xuất muối và thực hiện việc mua muối, nhập kho muối mua của diêm dân. Với danh nghĩa chống lậu, nhân viên thương chính có quyền kiểm soát mọi nơi (từ nhà riêng, nhà kho đến thuyền buôn) cả ngày và đêm, để phát hiện số muối sản xuất được mà không bán hết cho Nhà nước. Giá muối do Nhà nước quy định, được uỷ quyền cho cơ quan thương chính ấn định cụ thể mức giá mua tại từng đồng muối, theo loại muối đủ tiêu chuẩn, chất lượng được thông báo trên tờ công báo. Loại muối có tạp chất bị giảm giá hoặc bị huỷ bỏ, người sản xuất không được bồi thường. Năm 1897, Sở thương chính mua của diêm dân với giá 40 xu/tạ muối đủ phẩm chất; 25 xu/tạ muối loại hai; giá bán ra đồng loạt là 50 xu/tạ. Đến năm 1939, giá mua là 2,61 đồng/tạ, bán ra 5-6 đồng/tạ; năm 1945, giá mua không thay đổi nhưng giá bán đến 28 đồng/tạ.

 Bằng cách độc quyền như trên, Nhà nước thực dân đã thực hiện chế độ thuế muối thông qua khoản chênh lệch ngày càng tăng giữa giá thu mua của diêm dân và giá bán ra cho nhân dân, thường gấp từ 2 đến 10 lần giá mua, không hề tốn vốn đầu tư, có chăng chỉ mất ít phí vận chuyển và tổ chức bộ máy quản lý, thu mua muối. Khi muối đến tay người tiêu dùng qua các khâu bán buôn, bán lẻ, giá đã tăng vọt, đặc biệt ở các vùng trung du, miền núi, giá càng cao. Dân nghèo vùng biển, không có tiền mua muối phải bí mật cất giữ một ít nước chạt (nước muối) để ăn, nếu bị phát hiện cũng phải chịu tù tội, bị phạt tiền.

 Trong việc thu mua muối, nhân viên thương chính ở một số nơi còn thu vượt quá mức ghi sổ, gọi là muối trừ hao hụt. Ví dụ, ở Quảng ninh là 20%, ở Nghệ An, mỗi thúng muối là 50 kg, đáng lẽ gạt bằng miệng thúng thì cơ quan thương chính lại dùng một thứ vung chụp lên thành ra thúng nào cũng có ngọn. (một thúng, số muối giao phải mất hơn 5kg).

 Do thuế muối ngày càng tăng nên giá muối quá đắt, không phải ai cũng có thể mua đủ muối để dùng. Từ đầu thế kỷ thứ XX, một nhà kinh tế học của Pháp đã viết: “Dân tộc Việt nam bị đói kém ghê gớm, họ bị bắt buộc phải hạn chế một món ăn không thể thiếu là muối”.

 Chính sách thu thuế muối theo kiểu độc quyền, với giá thu mua rẻ mạt và giá bán ra cắt cổ đã làm cho đời sống của diêm dân sa sút, nhiều người phải bỏ nghề hoặc làm ăn vất vưởng. ở Phan Rang, năm 1894 có 156 hộ diêm dân, đến năm 1919, chỉ còn 86 hộ. Sự hợp tác cổ truyền giữa dân làm muối và dân đánh cá từ xưa đến nay không còn thực hiện được. Muốn ướp cá cho khỏi ươn hoặc làm cá khô, làm nước mắm, dân đánh cá đều phải mua muối của chính quyền với giá cao và không phải lúc nào cũng mua được. Không ít người dân chài khóc than vì phải vứt bỏ công lao một ngày đánh cá xuống biển chỉ vì không đủ tiền mua muối ướp cá.

 Nghề làm mắm cũng bị kiểm soát gắt gao, đề phòng tiêu thụ muối lậu và phải bán theo giá quy định. Theo Nghị định ban hành tháng 9/1937, ở Nam kỳ, nước mắm phải bán theo giá nhất định là 8 xu/lít, không phân biệt chất lượng. Với giá muối cao, giá bán nước mắm lại thống nhất một loại nên các nhà sản xuất nước mắm đua nhau sản xuất nước mắm hạng xoàng. Do đó, từ chế độ thuế muối khắt khe, nghề làm nước mắm ở nước ta cũng không thể phát triển và mai một dần.

 Có thể nói thuế muối thông qua chế độ công quản, độc quyền là một trong những chính sách bóc lột thuộc địa có hiệu quả nhất của thực dân Pháp ở Đông dương, một loại thuế bất công, vô nhân đạo. Chế độ thuế này đã gây nên nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế của toàn bộ nhân dân Việt nam, đặc biệt đối với cư dân vùng biển, nghề làm muối, nghề chài lưới, nghề làm mắm đều bị điêu đứng vì chính sách độc quyền muối của thực dân Pháp.

 2.2.2 Thuế rượu

 Công quản rượu là việc chính quyền thực dân Pháp trực tiếp quản lý bán rượu cho Công ty Phông-ten của tư bản Pháp gọi là “rượu ty”, có rất nhiều cổ phần từ phủ toàn quyền đến cán bộ cao cấp khác của Pháp. Để loại rượu này bán được chạy, thu được nhiều lợi nhuận chia nhau, một mặt thực dân Pháp cấm đoán mọi việc nấu rượu của tư nhân Việt nam (kể cả việc tự nấu rượu để uống) đồng thời giao chỉ tiêu bán “rượu ty” cho chính quyền tổng, xã.

 Song song với việc sản xuất rượu, thực dân Pháp nắm cả độc quyền mua và bán ra các loại rượu theo giá do cơ quan thương chính quy định hàng quý, dựa vào giá thóc gạo trên thị trường. Trong giá bán có tính cả phần lãi được chia cho cơ quan thương chính, Tổng công ty rượu Bắc kỳ, Trung kỳ, các cơ sở bán buôn, bán lẻ… Trước năm 1897, giá bán lẻ 1 lít rượu có 5-6 xu. Sau khi nắm độc quyền, Nhà nước quy định giá bán buôn là 14 xu, giá bán lẻ đến 18 – 20 xu/lít. Trong số tiền lời, người bán buôn phải nộp cho cơ quan thương chính từ 2 xu đến 4 xu rưỡi/lít. (tạp chí Tài chính số 2/1999- Trang 38)

 Chính quyền thực dân buộc nhân dân Việt Nam phải uống “rượu ty”. Người Việt Nam nào nấu ruợu sẽ bị tù, cũng như làng nào không tiêu thụ đủ số rượu mà chúng quy định vẫn phải trả tiền và bị coi là phiến loạn (Lịch sử Việt Nam – tập II – trang 104). Hàng năm, 12 triệu dân bản xứ, kể cả đàn bà, trẻ em, bắt buộc phải tiêu thụ 23 đến 24 triệu lít rượu cồn (Hồ Chí Minh toàn tập – tập I , trang 339). Mỗi năm, Công ty Phông ten lãi khoảng 2 triệu phơ răng, trong khi vốn ban đầu của chúng bỏ ra chỉ có 3,5 triệu phơ răng (Lịch sử Việt Nam – tập II – trang 105).

 Đầu năm 1934, trong một số lá đơn của dân làng Bích Đại (Vĩnh Yên) gửi cho Gô-đa (Thanh tra lao động của Chính phủ Bình dân Pháp), khi Gô-đa ở Pháp sang khảo sát tình hình Đông dương có đoạn viết: “chúng tôi không phải là lái buôn, cũng không phải là tiểu bài rượu. Nay tất cả các chức dịch trong làng chúng tôi đều bị một điều cưỡng bách: lĩnh rượu của hàng Phông-ten… về bán. Bỏ một kỳ không lĩnh sẽ bị bắt bớ, đánh đập tàn nhẫn. Nhiều khi người ta đổ rượu vào đầu chúng tôi hoặc vào gốc cây rồi bắt chúng tôi phải trả tiền. Thế không chịu nổi, chúng tôi lại phải khất, mặc dầu vợ đói, con rét. ấy đấy, chúng tôi vẫn đương chịu nỗi ức mà nhiều nơi cũng chịu chung số phận như chúng tôi nữa…”

 Năm 1935, ở Hải dương, Thái nguyên, quan tỉnh bắt mỗi suất đinh phải uống đều mỗi tháng 1 lít rượu. Hết tháng, làng nào không mua đủ số rượu theo chỉ tiêu thì hào lý bị đánh, bị phạt đi lao dịch cho huyện. Có lý trưởng cứng cổ nói: “dân tôi nghèo quá, đến gạo không có ăn, tiền đâu uống rượu” thì quan đặt rượu trước mặt bắt phải trả tiền, dầu phải bán nhà, bán ruộng làm sao mặc kệ. Ngoài ra, chính quyền địa phương còn đặt ra cái lệ nhà nào xin phép mổ bò phải mua 20 chai rượu; xin mổ lợn: 15 chai; mổ dê: 5 chai… để có thể tiêu thụ hết.

 Không những thế, bọn thực dân còn có thủ đoạn hèn hạ nhất là pha nước lã vào rượu. Trong “Bản án chế độ thực dân” Nguyễn ái Quốc đã vạch trần: “Bọn chủ độc quyền còn ra thông tư bắt nhân viên của chúng pha thêm nước lã vào rượu để bán, cứ mỗi héctô lít rượu pha thêm 8 lít nước lã. Như thế, tính trên toàn cõi Đông dương, mỗi ngày bán 500 héctô lít, mỗi lít giá 3 hào, thành ra 1.200 đồng ĐD/ngày, 36.000 đồng ĐD/tháng. Như thế chỉ cần mở vòi nước lã không thôi, mỗi năm công ty cũng thu được món lãi “nho nhỏ” là 432.000 đồng ĐD, tương đương 4 triệu phờ-răng Pháp”. (Tạp chí Tài chính 2/1999 – trang 39, 40)

 Về thuế, Nghị định năm 1888 quy định: cứ 100 lít rượu nguyên chất nhập cảng (cả rượu nhập từ Pháp) phải đóng 25 đồng tiền thuế. Đến năm 1893, do các nhà buôn rượu Tây kêu ca, Nhà nước cho hạ thuế, còn mức 15 đồng ĐD/lít. Các cơ sở kinh doanh rượu phải nộp thêm thuế môn bài với mức thu thay đổi tăng lên hàng năm.

 Năm 1902, thuế tiêu thụ đánh vào mỗi lít rượu cao độ là 10 xu/lít; năm 1909: 12 xu và giá bán 1 lít rượu là 36 xu/lít, đắt gấp đôi giá 1 lít rượu lậu. Thuế tiêu thụ tăng dần đến 18 xu/lít (1937), 20 xu/lít (1938). Năm 1936, giá rượu ty do nhà nước quy định cho các cơ sở bán buôn bán ra là 56 xu/lít. Số thuế rượu thu được hàng năm không ngừng tăng lên. Trong vòng 10 năm (1931 – 1942) số thuế rượu đã tăng gấp 2,8 lần (13,6 triệu đồng/4,8 triệu đồng).

 Để quản lý việc sản xuất và bán rượu thu được nhiều thuế, sở thương chính đã có nhiều biện pháp chống rượu lậu một cách gắt gao. Nghị định ngày 1/6/1897 quy định: ai nấu rượu lậu phạt tiền từ 200 đồng đến 1000 đồng và phạt giam từ 15 ngày đến 3 năm, đồ dùng để nấu rượu bị tịch thu. Ai vận chuyển rượu hoặc có rượu trong nhà mà không chứng minh được rượu đã có thuế bị phạt tiền từ 25 đồng đến 500 đồng, bị giam từ 8 ngày đến 3 năm. Các chức dịch nào không quản lý được để dân nấu rượu lậu sẽ bị khiển trách, phạt tiền. Người chỉ điểm cho cơ quan thương chính bắt được rượu lậu được thưởng nhiều tiền nên đã phát sinh không ít trường hợp chỉ vì chạy theo tiền thưởng mà bịa ra những trường hợp không thật, chỉ cần một gói cơm nếp ủ men ném vào trong bờ rào hàng xóm thì cả một gia đình bị phá sản, một dịp để thực hiện các cuộc trả thù ở nông thôn. Nhà đoan tịch thu đúng đồ dùng nấu rượu cũng có, nhưng cũng đã xảy ra không ít trường hợp chỉ khám thấy một nồi đồng to, đã bị kết tội là nấu rượu lậu. Đồ tịch thu do nhà đoan bán ra đã tạo nguồn thu khá lớn cho công quỹ, chỉ có dân quê là thiệt.

 Chế độ độc quyền và thuế rượu đã không những trở thành một hình thức bóc lột vô cùng hà khắc mà còn gieo rắc cho nhân dân nhiều tai vạ. Một nhà nghiên cứu của Pháp đã nhận xét: “thuế gián thu về rượu bản xứ, đứng về mặt tài chính hoàn toàn là sự đóng góp chắc chắn nhưng đã tạo ra ở xứ An Nam một thứ thuế dở về chính trị, xã hội”.

 2.2.3- Thuế thuốc phiện

 Thuốc phiện là loại thuốc độc đối với con người. Thói quen nghiện hút thuốc phiện là một tệ nạn của xã hội, gây hậu quả nghiêm trọng đến nhân tài, vật lực của từng quốc gia, làm suy yếu chế độ xã hội. Nhà nước nào muốn tồn tại, muốn duy trì trật tự xã hội và đạo đức con người đều phải tìm mọi cách bài trừ thuốc phiện. ở Việt nam, dưới thời phong kiến, việc buôn bán nghiện hút đều bị cấm đoán… ở nước Pháp, chỉ cần phát hiện vài hạt thuốc phiện, một phòng hút thuốc phiện thì bị cảnh sát khám xét, bị bỏ tù vì làm suy yếu chủng tộc Pháp.

 Nhưng sau khi đặt ách thống trị lên Việt nam, bọn thực dân Pháp lại khuyến khích buôn bán, hút thuốc phiện, không nghiện thì “hút cho biết mùi đời”, cho phát triển các tiệm hút thuốc phiện để bán và thu được nhiều thuế thuốc phiện. Đặc biệt, từ tháng 2/1899, nhà nước thực dân đã thiết lập chế độ công quản, độc quyền về nhập, chế biến, bán thuốc phiện trên toàn cõi Đông dương.

 Công quản và độc quyền thuốc phiện là nhà nước mua thuốc phiện sống về chế biến thuốc phiện chín khuyến khích dân tiêu thụ, mở tiệm hút để tạo được nguồn thu lớn lao cho chính quyền thực dân.

 Thuốc phiện thô được mua chủ yếu từ Vân nam (Trung quốc) và ấn độ, giao cho xưởng thuốc phiện ở Sài gòn chế biến thành thuốc hút hoàn chỉnh. Thuốc được đóng vào các hộp bằng đồng theo các loại: 1kg, 200g,100g, 40g, 20g, 10g, 5g. Chính quyền thực dân nghiêm cấm nhân dân tự ý trồng thuốc phiện và chế biến thuốc phiện. Tất cả thuốc phiện bán ra trên thị trường phải là của nhà nước bán ra. Những người bán thuốc phiện phải được cấp giấy phép chỉ có giá trị trong từng năm.

 Năm 1896, giá bán 1kg thuốc phiện là 45 đồng ĐD; năm 1899 lên 77 đồng ĐD/kg; trước chiến tranh thế giới thứ nhất đến 100 đồng ĐD/kg; năm 1942 đến 1000 đồng ĐD/kg. Thu nhập về thuốc phiện năm 1909 ước khoảng 5,3 triệu đồng ĐD; năm 1920 ước 14 triệu đồng ĐD. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất do thuốc phiện nhập bị hạn chế, thực dân Pháp đã khuyến khích trồng cây thuốc phiện ở miền núi Bắc bộ.

 Chế độ độc quyền thuốc phiện đã gây ra làn sóng phản đối gay gắt trong nhân dân ta. Nhằm xoa dịu dư luận, năm 1907, chính quyền thực dân cũng ra lệnh hạn chế việc mở các tiệm hút, song đó chỉ là lừa bịp, số thuốc phiện bán ra vẫn nhiều. Năm 1909, số thuốc phiện bán ra ước tính khoảng 150.000kg. Số người nghiện vào thời điểm này khoảng 255.000 nghìn người (trong đó có khoảng 220.000 người Việt).

 Theo quyển “Lịch sử Việt nam” (tập II – NXB Khoa học xã hội – 1985) thì khắp đất nước Việt nam từ hang cùng đến ngõ hẻm, cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lý bán lẻ rượu (có treo biển R.A) và thuốc phiện (có treo biển R.O). Từ năm 1900 đến năm 1910, nhà nước thực dân đã thu được 77 triệu phờ-răng Pháp về tiền lãi bán thuốc phiện. Ngoài ra chúng còn mở các tiệm hút, tiệm rượu và sòng bạc. Năm 1887, riêng ở Nam kỳ, thực dân Pháp đã thu được từ việc kinh doanh các tiệm hút, tiệm rượu và sòng bạc tới 2,5 triệu phờ-răng Pháp năm 1900, tổng số thuế gián thu của ngân sách Đông dương là 13,5 triệu đồng thì riêng thuế muối, thuế thuốc phiện đã chiếm 11,050 triệu đồng (Lịch sử Việt Nam – tập II – trang 104).

 Với chính sách tài chính thâm độc này, thực dân Pháp đã bòn rút đến tận xưởng tuỷ của nhân dân Việt nam. “Nói đến các món độc quyền, người ta có thể hình dung Đông dương như một con nai béo mập, bị trói chặt và đang hấp hối dưới những cái mỏ quặp của bầy diều hâu, rỉa mãi không thấy no” (Hồ Chí Minh toàn tập – Tập I – trang 339).

 2.3- Tổ chức chỉ đạo, quản lý thu thuế quan và thuế gián thu

 Để bảo đảm việc thu thuế quan và thuế gián thu, thực hiện tốt các chế độ công quản, độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện, chính quyền thực dân đã thành lập một tổ chức quản lý thu thuế quan và công quản thật chặt chẽ mà nhân dân ta thường gọi là “nhà đoan” hoặc cơ quan “thương chính”. Đây là tổ chức trong bộ máy chính quyền của thực dân Pháp có số nhân viên nhiều nhất sau quân đội. Cuối thế kỷ thứ 19, cơ quan thương chính (nhà đoan) có 2.842 người (785 người Pháp, chủ yếu ở các cương vị phụ trách các đơn vị thuế quan và 2.057 người bản xứ) trong tổng số công chức nhà nước, cả người Pháp và người Việt nam là 12.196 người (Số nhân viên sở thương chính đã chiếm đến 23,3% tổng số công chức Nhà nước).

 ở Trung ương, công tác quản lý, theo dõi thuế quan và công quản thuộc Văn phòng Phủ toàn quyền phụ trách; ở mỗi kỳ, có sở thuế quan và công quản, ở mỗi tỉnh, thành phố có “Ty chánh thu thuế quan và công quản”; ở các vùng đồng muối hoặc các vùng có nguồn thu thuế quan lớn thì có “ty phụ thu thuế quan và công quản”. Đại bộ phận các giám đốc sở, các trưởng ty chánh thu, phụ thu đều là người Pháp.

 Với lý do chống rượu lậu, thuốc phiện lậu, muối lậu, nhân viên nhà Đoan có quyền lục soát, khám xét, bắt bớ, truy tố, bỏ tù mỗi năm hàng nghìn người, trong đó có nhiều người bị vu oan mà không cách nào bào chữa được.

 3. Thuế chủ yếu thu cho ngân sách các xứ (kỳ)

 Nguồn thuế cho ngân sách các xứ chủ yếu gồm các thứ thuế cũ dưới thời phong kiến như thuế thân, thuế ruộng đất, thuế lao dịch và được sửa đổi bổ sung thường xuyên, theo hướng tăng mức thu ngày càng ác liệt hơn.

 3.1- Thuế thân (thuế đinh)

 Nhìn chung, thuế thân đánh vào dân đinh từ 18 đến 60 tuổi. Trước kia, thuế thân chỉ đánh vào nội đinh, tức là người có ít nhiều tài sản, có khả năng đóng thuế, được chia ruộng đất công, được tham gia một số danh vị, chức vụ và có tên trong sổ hộ tịch của làng. Triều Nguyễn thu 14 xu một suất đinh. Việc thu thuế dựa vào sổ đinh của làng xã để thu.

 Chính quyền thực dân đã duy trì loại thuế này để tận thu. ở Nam kỳ, từ năm 1784, đã thực hiện việc kê khai lại dân số, lập sổ đinh để đánh thuế với mọi nhân đinh, không phân biệt nội đinh hay ngoại đinh (người không có tài sản, ruộng đất không có tên trong sổ hộ tịch của làng…), mỗi đầu người phải nộp 1 đồng, riêng ở thành phố Sài gòn, mức thuế dân đinh tăng gấp đôi.

 Đến năm 1897, ở Nam kỳ thuế thân được phân biệt theo 2 loại: hữu sản: 5,5 đồng; vô sản: 4,5 đồng. Sư sãi, cố đạo, lính tại ngũ, người già trên 60 tuổi được miễn nộp thuế thân. Chính quyền xã có trách nhiệm phải thu đủ toàn bộ số thuế thân theo sổ đinh và nộp hết vào kho bạc nhà nước. Những người đã nộp thuế hoặc chính thức được miễn thuế đều được phát thẻ tuỳ thân, để xuất trình cho nhân viên kiểm tra, kiểm soát khi có yêu cầu. Thẻ thuế thân được chính quyền thực dân phong kiến thiết lập đầu tiên ở Nam kỳ ngày 27/9/1902 và có giá trị như một giấy thông hành khi đi lại trong từng kỳ. Nếu muốn vượt qua kỳ, ra Bắc vào Nam phải có thẻ căn cước do chính quyền thực dân xét, cấp.

 ở Bắc kỳ, Trung kỳ không thực hiện kê khai lập sổ đinh mới nên việc thu thuế thân căn cứ vào sổ đinh và theo thể thức thu thuế thời nhà Nguyễn với mức thuế mới ở Bắc kỳ là 50 xu/suất và ở Trung kỳ là 30 xu/suất. Ngày 12/10/1886, với thoả thuận giữa triều đình Huế và chính quyền thực dân, mỗi tráng đinh phải góp thêm 48 ngày đi phu, lao dịch không công. Đến 1897, toàn quyền Đu-me quy định chế độ “bán lại” 20 ngày trong số 48 ngày công lao dịch trên đây để lấy 2 đồng, gộp thêm vào thuế thân, khiến thuế thân đã tăng vọt từ 50 xu lên 2,5 đồng ở Bắc kỳ và từ 30 xu lên 2,30 đồng ở Trung kỳ, tương đương giá 1 tạ gạo lúc bấy giờ. Dã man nhất là người chết cũng không được miễn thuế trong năm và người sống phải đóng thay, vì nhà nước thực dân buộc từng làng xã phải nộp đủ tổng mức thuế đã giao, dựa trên sổ đinh có từ đầu năm (Lịch sử Việt Nam – tập II trang 104). Bọn kỳ hào lại thường ẩn lậu danh sách con cháu của chúng nên dân làng phải gánh chịu thêm phần thuế cuả những người này mà không dám kêu ca. Năm 1925, nhân dịp lễ “Tứ tuần đại khánh” (đại lễ mừng thọ 40 tuổi) của vua Khải Định, bọn thực dân phong kiến đã bắt nông dân và các tầng lớp nhân dân ở Trung kỳ phải đóng thêm 30% thuế thân. Tuy nói là thuế bất thường nhưng từ năm đó trở đi, năm nào dân cũng phải đóng như vậy (Lịch sử Việt Nam – tập II trang 181). Trong những năm 1936-1938, do phong trào đấu tranh dân chủ lên cao, chính quyền đã có điều chỉnh thuế thân gắn với số ruộng đất đã có. Ví dụ, dân không có chút ruộng nào, phải đóng thuế với mức 1,2 đông; bậc cao nhất có từ 100 mẫu ruộng đất trở lên, nộp 50 đồng/ người. Trên thực tế, đối với dân vô sản, việc phải nộp thuế 1,2 đồng/năm cũng gặp rất nhiều khó khăn.

 ở Trung kỳ , theo Dụ ngày 15/8/1899 của Vua được toàn quyền thông qua, mức thuế mỗi đầu người thuộc loại nội đinh (có tài sản) là 2,2 đồng; ngoại đinh (vô sản) là 40 xu. Nhưng từ 10/10/1928, thuế thân được áp dụng đồng loạt với cả nội đinh và ngoại đinh là 3 đồng/suất.

ở Nam kỳ, thuế thân đã tăng từ 5,85 đồng năm 1913 lên 7,5 đồng năm 1929. Tính chung, ở cả 3 kỳ, tổng số thuế thân năm 1929 tăng gần gấp đôi năm 1913 (Lịch sử Việt Nam – tập II. Trang 168)

 Năm 1938. Thực dân Pháp đưa ra dự án tăng thuế từ 25% đến 30%. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào quần chúng và dư luận báo chí đấu tranh sôi nổi, Viện dân biểu do ta nắm đa số dã phản đối nên dự án không được thông qua. Tuy vậy, đến năm 1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, thực dân Pháp đã khủng bố phong trào bình dân và tăng thuế đến khoảng 40%.

 Thuế thân đã tạo thêm cho nhà nước thực dân số thu rất lớn, nhưng đối với dân nghèo, mỗi khi đến vụ thuế (tháng 5 âm lịch) xóm làng lại xôn xao, nhiều người không chạy nổi mấy đồng nộp thuế đã bị kìm kẹp, gông cùm hoặc bỏ quê hương để trốn cảnh đau thương, khổ cực.

 Thuế thân ngày càng trở thành nỗi kinh hoàng của nhân dân. Đến vụ thuế, dân quê phải bổ nhào đi vay nặng lãi của nhà giàu, vay nông phố ngân hàng hoặc có thóc thì đổ hết đi bán. Rẻ mấy cũng phải bán đặng nộp thuế cho xong xuôi. Cầm cố nồi, xanh, quần áo để nộp thuế. Có khi nhà nghèo quá, thuế đến phải bán con, “Bán vợ, đợ con nộp thuế cho nhà nước” là một thành ngữ trong dân gian… Dân thiếu thuế bị cùm kẹp, roi vọt, không ra tiền thì quan đã có cách “tha thải”, nghĩa là cho lý trưởng đứng tên người thiếu thuế, viết văn tự vay nợ nhà giàu, nộp thuế cho dân, rồi dân phải trả sau. Ngoài tha thải, còn có cách cầm ruộng, tịch thu tài sản” (Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp – Vấn đề dân cày – NXB Sự thật – in lần thứ 2 – 1959 – trang 59-60).

 Với những chính sách sưu thuế thâm độc, trắng trợn, suốt cả năm ở thành thị cũng như ở nông thôn, ngày nào người ta cũng được thấy những cuộc bắt bớ, khám xét, gây nên những cảnh đau xót, thảm thương trong việc thu các loại thuế. Có lúc thu thuế đã trở thành mộc cuộc săn bắt người… Trong bài “Thiết trường ca”, Nguyễn Phan Lăng đã viết:

 ” … Trời đất hỡi, dân ta khốn khổ

 Đủ các đường thuế nọ thuế kia

 Lưới vây chài quét trăm bề

 Róc xương, róc thịt còn gì nữa đâu… “

 (Lịch sử Việt Nam – tập 2 trang 107)

 Bốn câu thơ của Tố Hữu trong bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng” đã diễn tả được phần nào khung cảnh khốn khổ ở nông thôn trong những ngày đốc thuế dưới thời thực dân phong kiến:

 …”Ôi! nhớ những năm nào thủa trước

 Xóm làng ta xơ xác héo hon

 Nửa đêm thuế thúc, trống dồn

Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy”…

 3.2 Thuế ruộng đất (thuế điền thổ)

 Dưới thời nhà Nguyễn, thuế ruộng đất được đánh theo đẳng hạng do địa phương phân loại đã tạo điều kiện cho chính quyền làng xã tuỳ tiện điều chỉnh khi cần thiết để bù số thuế thiếu theo mức giao của trên hoặc thêm nguồn thu chi dùng riêng cho làng xã. ở một số xã, tuyệt đại bộ phận ruộng đất được đánh thuế theo hạng nhất, nhưng trên thực tế lại có nhiều ruộng đất xấu.

 Ngay sau khi đặt nền thống trị trên đất nước Việt nam, thực dân Pháp vẫn cho duy trì chế độ thu thuế như dưới triều Nguyễn. ở Nam kỳ, ruộng đất được sắp xếp lại đẳng hạng với mức hợp lý hơn, theo năng suất.

 Từ năm 1897, toàn quyền Đông dương đã nhiều lần cho điều chỉnh lại theo 4 hạng điền, 6 hạng thổ (đất) phân biệt theo đất canh tác và đất ở, đất xây dựng, ở thành phố, thị xã hay nông thôn; trồng lúa, màu hay các cây công nghiệp khác nhau (thuốc lá, trầu, cau, dừa, mía, dâu, chè, bông, đay, gai, thầu dầu, ngô, vừng, khoai lang, khoai sọ, đỗ, cây ăn quả, cói, lạc; đất không trồng trọt; đất bùn, ao, hồ, đầm; ruộng muối; đất đối với người bản xứ, người châu á, châu Âu, ngoại kiều khác…; miễn thuế cho các loại đất dành cho nghĩa trang, đền thờ, chùa, nhà thờ, các công trình tôn giáo; miễn thuế 6 năm đầu cho đất trồng cà phê và 4 năm đầu cho đất trồng chè. (Lịch sử Việt Nam – tập II – trang 104)

 Việc phân định lại hạng ruộng đất nhằm phục vụ lợi ích của bọn thực dân và chính quyền phong kiến. Mức thuế chủ yếu là tăng lên, kèm với những khoản phụ thu, nhưng diện tích làm căn cứ tính mẫu, sào lại điều chỉnh giảm xuống. Ví dụ: Theo quy định từ thời Tự Đức (1847-1883), mỗi mẫu Việt nam là 4.970m2. Năm 1897, ở Bắc kỳ, mỗi mẫu chỉ có 3.600m2 (Lịch sử Việt nam – tập II – trang 104). Vì vậy dẫu mức thuế điều chỉnh lại bằng hay cao hơn cũ, thuế phải nộp thực tế tăng lên, có khi đến 2-3 lần. Trước đây thước đo của Việt nam cũng không thống nhất: có thước dài 43cm, có thước dài 47cm hay 53cm, do đó diện tích mẫu ta cũng không thống nhất chung cả nước. Có nơi 1 mẫu = 3972m2 hoặc 6.200m2. Để tăng thuế điền, chính quyền thực dân quy định thống nhất thước ta là 40cm, mỗi mẫu ruộng chỉ còn 3.600m2. Như vậy, thuế điền nhìn chung đều tăng. Về hình thức, thuế điền được quy định theo mức nộp cao thấp khác nhau tuỳ ruộng tốt hay xấu. Nhưng trên thực tế, việc phân loại, định hạng ruộng, đất do bọn hào lý quyết định nên đã tạo nhiều nhũng lạm trong việc phân bổ thuế. “Khi cần thiết, Nhà nước bảo hộ Pháp chỉ có việc thay đổi hạng ruộng. Chỉ một nét bút thần kỳ là họ biến một “đám ruộng xấu thành ruộng tốt. Như thế vẫn chưa hết. Người ta còn tăng diện tích ruộng đất lên một cách giả tạo bằng thủ đoạn rút bớt đơn vị đo đạc. Bằng cách đó, thuế lập tức tăng lên, nơi thì một phần ba, nơi thì hai phần ba (Hồ Chí Minh toàn tập, tập I trang 394).

 3.3- Thuế lao dịch

 Dưới triều Nguyễn, thuế lao dịch chỉ áp dụng với tráng đinh, không có sự quy định thật rõ ràng về số lượng ngày lao dịch trong năm mà huy động tuỳ theo yêu cầu công việc. Nhìn chung là quy chế lao dịch không ngặt nghèo lắm và thường không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Thực dân Pháp đã quy định cho nội đinh phải đi lao dịch 48 ngày/năm. Đến 1897, thuế lao dịch được chuyển thành thuế nhân lực với nội dung như sau:

 ở Bắc kỳ, số ngày lao dịch nội đinh (gồm cả tráng đinh, lão hạng…) mỗi năm là 30 ngày (được “bắt chuộc” 20 ngày với giá 2 đồng ĐD, ghép vào thuế thân để xây dựng và sửa sang đường giao thông, còn lại 10 ngày công, về nguyên tắc là dành cho việc tu bổ đê điều và đường giao thông hàng tỉnh. Nhưng đến năm 1904, số ngày công còn lại này cũng được quy thành chế độ :chuộc” với giá 0,15 đồng/ngày, thành tiền là 1,5 đồng/người để nộp vào ngân sách hàng tỉnh.

 ở Trung kỳ, Dụ của vua ngày 18/8/1898 được toàn quyền thông qua, quy định tiền chuộc 10 ngày thành 1 đồng ghép vào thuế thân, 10 ngày dùng cho dịch vụ công ích (làm việc cho nước, cho tỉnh) và 10 ngày cho dịch vụ làng xã. Song trong thực tế, số ngày mà nhân dân phải lao dịch xây dựng lăng tẩm, đắp đê điều rất nhiều.

 ở Nam kỳ, thực hiện việc chuộc 30 ngày lao dịch thành 3 đồng, nộp hết vào ngân sách tỉnh.

 Như vậy, về nguyên tắc, thuế lao dịch đã chuyển thành tiền (gắn với thuế thân hoặc nộp ngân sách tỉnh,xã) để sử dụng vào việc xây dựng, tu bổ đường sá, đê điều… Nhưng trên thực tế, khi cần làm đường hoặc đắp đê, Chính phủ vẫn huy động nhân lực một cách tuỳ tiện, kể cả trong những ngày mùa cày cấy, thu hoạch nông nghiệp. Đơ-vi-try, một nhà nghiên cứu của Pháp đã nhận xét :”các làng xã vẫn như xưa kia, vẫn phải lo đắp đê, làm đường trong vùng, họ lấy nhân công ở đâu? vẫn phải huy động nhân lực trong xã và các sở công chính sẽ lấy nhân công ở đâu để xây dựng đường sá, làm lại những đoạn đường xung yếu, trong lúc nhân công khó kiếm? Họ dùng biện pháp “trưng dụng”. Tôi không rõ trong ngôn ngữ Việt nam có đủ từ để phân biệt “đi lao dịch” với “trưng dụng” nhân lực không? Chỉ biết rằng với con mắt của người bản xứ, hai thứ đó chỉ là một, tức là phải đi lao dịch” (DeVitry – Nghiên cứu chế độ tài chính của Vương quốc An Nam – Paris – 1905 – Trang 164).

 Chính quyền thực dân cưỡng bức nhân dân Việt Nam từ bỏ tiền, gạo ra đi phu đào sông, đắp đường vận tải liên miên. Riêng trong hai năm 1892-1893, chúng đã huy động 23 triệu rưỡi ngày công đào sông, đắp đường mà số tiền chi cho nhân công, tính bình quân mỗi người mỗi ngày chưa được nửa xu (Lịch sử Việt Nam tập II – trang 123).

4/ Nhận xét chung về chế độ thuế khoá dưới thời Pháp thuộc:

 “Sưu cao, thuế nặng” luôn luôn là nỗi sợ hãi, làm cho nông dân Việt nam thường xuyên lo lắng, điêu đứng, bần cùng. Ngoài thuế thân, thuế ruộng đất chính ngạch, thực dân và phong kiến còn đặt ra bao thứ phụ thu và những loại thuế khác mà người nông dân khó trốn được (như tô cước, tô trâu, biếu xén, lễ lạt…).

 Từ năm 1930, người dân được trừ 10% thuế thân nhưng phải nộp thêm 10-15% phụ thu nộp ngân sách tỉnh. Sau năm 1935, dân không được trừ 10% thuế thân nữa nhưng vẫn phải nộp thêm 10-15% phụ thu trên toàn bộ thuế thân của mỗi người.

 Về thuế ruộng đất, ngoài thuế chính ngạch, nông dân phải nộp thêm từ 4-6 % thuế phụ thu, tuỳ tỉnh; về sau lại tăng lên từ 8-10%. Thuế bách phân phụ thu này do công sứ tỉnh quyết định từng năm để bổ sung nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của tỉnh, xã. Ngoài ra, còn nhiều khoản thu bất thường khác với nhiều tên gọi khác nhau.

 Theo nhà kinh tế học Pháp P. Béc-na, trong năm 1930, số tiền thuế tính bình quân mà mỗi nông dân nộp cho ngân sách từng xứ (kỳ) là 30đồng ĐD ở Nam kỳ, 5 đồng ĐD ở Trung kỳ, 6 đồng ĐD ở Bắc kỳ. Nếu tính đến ngân sách tỉnh, thì số thuế thân, thuế ruộng đất bình quân chiếm 35% thu nhập của mỗi người nông dân ở Nam kỳ, 16% ở Trung kỳ, và 17% ở Bắc kỳ. Số thuế thu ở các xứ và tỉnh tương ứng với khoảng 67-68% ngân sách Đông dương.

 Trong ngân sách của từng xứ (từng kỳ) và tỉnh còn có các loại thuế: đánh vào các loại thuyền đi trên sông theo kích thước thuyền, thuế môn bài thu vào các cơ sở kinh doanh, thuế hầm mỏ, thuế sản xuất, chế biến, khai thác lâm thổ sản, thuế đánh vào các phương tiện giao thông vận tải, thuế trước bạ, công chứng…

 Thuế thu cho ngân sách xứ, (kỳ), tỉnh thường do bộ máy cai trị của nam triều (vua quan nhà Nguyễn) phụ trách với hệ thống tham quan, ô lại từ triều đình đến tỉnh, phủ, huyện, tổng, xã, trực tiếp thu hoặc cho đấu thầu đã tạo điều kiện để phát triển hà thu, lạm bổ, nhũng nhiễu, hạch sách, làm nhân dân ca thán, phổ biến do “quan xa, nha gần”. Việc lập sổ đinh, sổ điền phó thác toàn quyền cho bọn hào lý, không ai kiểm soát được đã dẫn đến nhiều số liệu, tài liệu về diện tích, hạng ruộng đất, số tuổi nhân đinh không chính xác, đổ hết gánh nặng cho “dân đen” không biết kêu cứu ở đâu. Đã không phải nộp tí gì cho nhà nước về thuế khoá, bọn cường hào, ác bá lại có dịp lợi dụng các chế độ sưu thuế để thêm thu nhập cho riêng mình. Đó là chế độ và tổ chức thuế gian lận, luỹ tiến ngược với tài sản, thu nhập, đời sống.

 Đối với thực dân Pháp, thuế khoá là mục tiêu cao nhất trong chính sách vơ vét thuộc địa, không chỉ bảo đảm sự tồn tại của bộ máy thống trị mà ngày càng hoàn thiện để có thể phát huy cao nhất tác dụng của một công cụ bóc lột, đạt hiệu quả tối đa cho “mẫu quốc”. Vào cuối những năm 20, không kể ngân sách hàng tỉnh, chỉ riêng ngân sách Đông dương và ngân sách ba xứ đã nuốt trôi bình quân của mỗi người dân Việt Nam, kể cả gái, trai, trẻ già khoảng 6-7 đồng bạc thuế, tương đương 60-70 kg gạo hạng nhất, bằng 3-4 tháng gạo ăn của một người lớn tuổi. Đó là chưa kể những đợt lạc quyên, phát hành công trái cùng với nạn phụ thu, lạm bổ mà cả bộ máy quan lại thuộc địa , từ toàn quyền Đông dương cho tới bọn tổng lý, kỳ hào làng xã luôn luôn tìm cách trút lên đầu người dân (Lịch sử Việt Nam – tập II trang 168).Trong việc thực hiện các chính sách sưu thuế, thực dân Pháp cấu kết và thoả thuận với bọn phong kiến chia nhau khoản đóng góp của dân nhiều nhất cho mình. Mọi gánh nặng về sưu thuế đã làm cho đời sống của nhân dân, đặc biệt là nông dân thêm cùng khổ, túng bấn. Vì vậy, ở nhiều nơi đã liên tục nổ ra các phong trào chống sưu, chống thuế, lao dịch sôi động, mạnh mẽ. đặc biệt ở Trung kỳ, từ tháng 3 đến tháng 5/1908, hầu hết các tỉnh đều có nổi dậy, biểu tình chống sưu thuế một cách quyết liệt, làm cho cả thực dân Pháp và bè lũ phong kiến tay sai điên cuồng, lồng lộn. Chúng đã dùng quân đội, cảnh sát, toà án cùng với bộ máy phong kiến đàn áp khốc liệt, bắn giết, tù đầy nhiều chiến sĩ cách mạng có tiếng tăm như xử tử cụ Trần Quý Cáp, đày các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân… ra Côn đảo. (Lịch sử Việt Nam tập II – trang 124)

 Ngày 14/6/1940, Paris, /thủ đô nước Pháp lọt vào tay quân Đức thì ngày 18/6/1940 Nhật gửi tới hậu thư cho toàn quyền Pháp ở Đông dương là Ca-tơ-ru, đòi Pháp phải đóng cửa biên giới Việt – Trung, đình chỉ việc vận tải tiếp tế xăng dầu… cho Tưởng Giới Thạch theo đường Hải phòng – Vân nam. Thấy rõ lực lượng của Pháp không thể chống lại, Catởu phải nhân nhưuợng, chấp nhận những điều kiện của Nhật đề ra. Theo Hiệp định Tôkiô ngày 6/5/1941, Pháp phải thừa nhận đơn vị được đặc biệt ưu đãi của Nhật trong quan hệ kinh tế với Đông dương, được mặc sức vơ vét của cải, nguyên liệu của các nước Đông dương – từ 1940 đến 1945 Pháp đã cung cấp cho Nhật trên 3,5 triệu tấn gạo, 26 vạn tấn ngô, 1.445 triệu đồng. Phát xít Nhật một mặt thông qua Pháp để bóc lột, vơ vét, mặt khác trực tiếp thi hành nhiều chính sách cướp bóc tàn bạo đối với nhân dân ta, bắt nhổ lúa trồng đay, bông, nộp cho Nhật, bán thóc theo diện tích cày cấy… (Lịch sử Việt Nam – tập II trang 314). Do đó trong những năm 1940-1945, nhân dân Việt nam đã phải sống những ngày đen tối nhất của đế quốc Pháp và phát xít Nhật, tuyệt đại bộ phận nhân dân ta, nhất là nông dân đã lâm vào cảnh nghèo nàn, bế tắc.

 Trong tác phẩm “Đông dương cấp cứu – S.O.S” nữ văn sĩ tiến bộ Pháp A-Vi-ô-lít đã miêu tả được một phần cảnh điêu tàn, xơ xác của làng quê Việt nam với đoạn văn: “Người ta đã thấy những người dân quê nghèo đói, rách rưới kia dắt trâu, đem cầy, cắp mâm đồng, độc bình, quần áo và cả ngai thờ tổ tiên, đồ vật thiêng liêng mà phải mấy đời dành dụm họ với mua sắm được… Họ đã phải bán những đồ vật đó với một giá rẻ mạt cho những người cho vay nặng lãi (trong đó có cả người Âu). Một con trâu đáng giá 20-30đồng chỉ bán được 5-6đồng, họ cũng phải bán đi hết để nộp các thứ đang giết họ. Đến bây giờ, có nhiều làng quê xơ xác, không còn gì cả, ngoài nắm quấn áo rách và túp lều ở điêu tàn, hạt giống hết, trâu không còn để kéo cày. Những người nông dân trông không còn ra người nữa. Họ chỉ còn cách hoặc là chết, hoặc là vùng dậy…”.

 Tình trạng ấy luôn luôn xảy ra ở các vùng đông dân ở đồng bằng Sông Hồng, ở các tỉnh Thái bình, Nam định, Hải dương, Kiến an… Tình hình lại càng nghiêm trọng khi chính quyền thuộc địa để xẩy ra những nạn lụt làm ngập hàng chục vạn ha ruộng đất. Chỉ kể từ năm 1930 đến năm 1945 đã có 6 trận lụt lớn ở Bắc kỳ gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn về người và của.

 Hậu quả cộng hưởng của thiên tai, bão lụt và địch hoạ như sưu cao, thuế nặng, bán thóc tạ, trồng thầu dầu và đay bán cho Nhật…, lạm phát khủng hoảng, chiến tranh… đã dẫn đến nạn đói khủng khiếp mùa đông 1944-1945, làm chết gần 2 triệu đồng bào ta.

 Trong hoàn cảnh ấy, với ảnh hưởng và tác động giáo dục của Đảng, lòng căm hận và tinh thần quật khởi của dân tộc bùng lên. Nhân dân ta liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa ở Bắc sơn (9/1940), ở Nam kỳ (11/1940). Bất chấp sự đàn áp điên cuồng của bè lũ Pháp, Nhật, nhân dân ta, tập hợp trong “Mặt trận Việt nam độc lập đồng minh” (gọi tắt là Việt minh) tham gia các Hội cứu quốc và lực lượng vũ trang, tổ chức đấu tranh du kích, có nơi chuyển sang chuẩn bị khởi nghĩa.

 Khi thời cơ đến, phát xít Nhật đầu hàng, ngày 15/8/1945, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, toàn dân ta nổi dậy như sóng vỡ bờ, suốt từ Nam chí Bắc, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược. Trong vòng 12 ngày, cuộc tổng khởi nghĩa vĩ đại của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thắng lợi trong cả nước, chấm dứt ách đô hộ gần 100 năm của đế quốc Pháp, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt nam. Một trong những điều làm nên sức mạnh vô song đó là sự căm thù chế độ bóc lột đến tột độ mà điển hình là chính sách sưu cao, thuế nặng, hà khắc của thực dân Pháp đối với nhân dân ta.

[collapse]

Thuế thân không chỉ là một gánh nặng tài chính mà còn là biểu tượng của sự áp bức và bất công xã hội. Người dân phải nộp thuế bằng tiền hoặc hiện vật, và đôi khi bằng cả sức lao động.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng nhận ra sự vô lý và bất công của thuế thân. Ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị bãi bỏ thuế thân cùng với một số loại thuế khác. Ngày 7 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 11 chính thức bãi bỏ thuế thân

SẮC LỆNH

CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ: 11 NGÀY 7 THÁNG 9 NĂM 1945

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Xét vì theo quy tắc chính thể Cộng hoà dân chủ, cần phải cải cách chế độ thuế khoá để đỡ gánh nặng cho dân chúng và hợp với công lý;

Xét vì cần phải thống nhất chế độ thuế khoá trong ba bộ nước Việt Nam;

Xét vì thuế thân là một thứ thuế vô lý, trái ngược với tinh thần chính thể cộng hoà dân chủ;

Sau khi Hội đồng các Bộ trưởng đã đồng ý;

RA SẮC LỆNH

Khoản I: Chế độ thuế khoá hiện hành sẽ thay đổi dần; nhưng mỗi khi bãi bỏ một thứ thuế cũ, hay đặt ra một thứ thuế mới, phải có sắc lệnh ấn định.

Khoản II: Bãi bỏ thuế thân kể từ ngày ký sắc lệnh này.

Khoản III: Các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Tài chính và Kinh tế chịu uỷ nhiệm thi hành sắc lệnh này.

Võ Nguyên Giáp

Không có mô tả ảnh.

(Đã ký)

Ý Nghĩa Của Việc Xóa Bỏ Thuế Thân

Việc xóa bỏ thuế thân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với xã hội Việt Nam. Trước hết, nó giải phóng người dân khỏi một gánh nặng tài chính lớn, giúp cải thiện đời sống kinh tế của họ. Thứ hai, việc bãi bỏ thuế thân thể hiện sự công bằng và nhân đạo của chính quyền cách mạng, khẳng định tinh thần dân chủ và bình đẳng

Ngoài ra, việc xóa bỏ thuế thân còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Nó đánh dấu sự chấm dứt của một chế độ phong kiến và thực dân áp bức, mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây cũng là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, nơi mà mọi người dân đều được đối xử công bằng và tôn trọng

 

Bản tin này chỉ mang tính chất tham khảo, không phải ý kiến tư vấn cụ thể cho bất kì trường hợp nào.

Đăng kí để nhận bản tin từ Gonnapass

Liên hệ tư vấn dịch vụ Kế toán – Thuế – Đào tạo: Ms Huyền – 094 719 2091
Mọi thông tin xin liên hệ:
Công ty TNHH Gonnapass
Phòng 701, tầng 7, toà nhà 3D Center, số 3 Duy Tân, P Dịch Vọng Hậu, Q Cầu Giấy, TP Hà Nội
Email: hotro@gonnapass.com
Website: https://gonnapass.com
Hotline/ Zalo : 0888 942 040
avatar
admin

Nếu bạn thích bài viết, hãy thả tim và đăng ký nhận bản tin của chúng tôi

Ý kiến bình luận

You cannot copy content of this page