Thuế thân, còn gọi là thuế đinh hay thuế đầu người, là một loại thuế áp dụng lên mỗi cá nhân nam giới trong xã hội phong kiến Việt Nam. Sau đó, thuế thân đã bị bãi bỏ
Lịch sử của thuế thân
@manabox.ketoanthue Thuế thân, ngay từ khi ra đời đã là một thứ thuế vô lý ~ #thuethan #lichsu #thue #ketoan #theodonglichsu #manaboxteam #manabox #viralvideo ♬ original sound – Manaboxvn
Thuế này xuất hiện từ thời nhà Lý và tiếp tục được duy trì qua các triều đại Trần, Lê và Nguyễn. Ban đầu, thuế thân được tính dựa trên số lượng ruộng đất mà mỗi người sở hữu. Tuy nhiên, từ thời nhà Lê, thuế này được áp dụng đồng đều cho mọi nam giới từ 18 tuổi trở lên, bất kể họ có sở hữu ruộng đất hay không.
Dưới thời phong kiến mà gần nhất là triều Nguyễn, thuế thân chỉ đánh vào nội tịch, tức là dân sở tại, có ít nhiều tài sản nên có khả năng đóng thuế. Vì vậy, người nộp thuế thân cũng được hưởng một số đặc quyền trong làng, xã như được chia ruộng đất công, được tham gia việc làng, được tham gia bầu các chức vụ trong làng, xã. Dân ngoại tịch (dân ngụ cư) không phải đóng và không được đóng thuế thân nên cũng không được hưởng các đặc quyền trên. Như vậy, dưới thời phong kiến, người nộp thuế thân vừa có nghĩa vụ vừa có quyền lợi khi nộp thuế, bởi đó là chính sách thuế của một nhà nước phong kiến độc lập, không có ngoại bang điều khiển.
Dưới thời Pháp thuộc, thuế thân trở thành một công cụ bóc lột kinh tế quan trọng của thực dân Pháp. Họ mở rộng đối tượng chịu thuế và tăng mức thuế, gây ra gánh nặng lớn cho người dân
Thuế thân được định thành xuất, nộp theo từng năm. Mức thuế đối với nội đinh nhiều hơn mức thuế đối với ngoại đinh (nội đinh nộp 2đ50, ngoại đinh nộp 0đ30). Mức thuế này bao gồm cả tiền thuế thân chính ngạch và tiền chuộc ngày công lao dịch. Cách tính mức thuế này tồn tại đến năm 1919. Sau năm 1919, chế độ đồng nhất thuế ra đời, việc phân chia nội đinh, ngoại đinh không còn nữa mà đánh đồng tất cả người có tài sản hay không có tài sản đều chung một mức 2đ50. Đó là sự bất công trong chế độ thực dân, phong kiến. Thực dân Pháp tận dụng tất cả các đối tượng nộp thuế nhưng lại ưu đãi một số đối tượng người Việt phục vụ cho bộ máy cai trị của Pháp như: Viên chức của chính quyền bảo hộ, những người có bằng tòng cửu phẩm trở lên, quân nhân đương nhiệm, thông ngôn, nhà nho đang làm việc tại các sở dân sự và quân sự, chánh phó tổng… Điều này thể hiện rõ ý đồ mua chuộc người Việt làm tay sai cho thực dân Pháp, chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất của một dân tộc.
Thuế thân không chỉ là một gánh nặng tài chính mà còn là biểu tượng của sự áp bức và bất công xã hội. Người dân phải nộp thuế bằng tiền hoặc hiện vật, và đôi khi bằng cả sức lao động.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng nhận ra sự vô lý và bất công của thuế thân. Ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị bãi bỏ thuế thân cùng với một số loại thuế khác. Ngày 7 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 11 chính thức bãi bỏ thuế thân
Ý Nghĩa Của Việc Xóa Bỏ Thuế Thân
Việc xóa bỏ thuế thân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với xã hội Việt Nam. Trước hết, nó giải phóng người dân khỏi một gánh nặng tài chính lớn, giúp cải thiện đời sống kinh tế của họ. Thứ hai, việc bãi bỏ thuế thân thể hiện sự công bằng và nhân đạo của chính quyền cách mạng, khẳng định tinh thần dân chủ và bình đẳng
Ngoài ra, việc xóa bỏ thuế thân còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Nó đánh dấu sự chấm dứt của một chế độ phong kiến và thực dân áp bức, mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây cũng là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, nơi mà mọi người dân đều được đối xử công bằng và tôn trọng
Bản tin này chỉ mang tính chất tham khảo, không phải ý kiến tư vấn cụ thể cho bất kì trường hợp nào.
Đăng kí để nhận bản tin từ Gonnapass